Theo Dõi Tận Thế, bài 04
Châm Ngôn 21:1
Đối với lịch sử thế giới thì vài chục năm rất ngắn ngủi. Nhiều biến cố xảy ra liên quan tới Xứ Thánh đều do bàn tay Đức Chúa Trời can thiệp vào. Tuy rằng tuyên ngôn Balfour nhằm giao trả vùng đất, lúc ấy gọi là xứ Palestine, cho cộng đồng Do-thái lưu lạc; nhưng sự việc không đơn giản như người ta tưởng. Tuyên ngôn ấy chỉ mới là văn kiện pháp lý được nội các chiến tranh vương quốc Anh chuẩn y đúng ngày 31 tháng 10, 1917, là ngày quân đội Anh đánh bại quân Ottoman ở mặt trận Beersheba, miền cực nam của xứ thánh. Lúc ấy, ít ai để ý đó là thời điểm quan trọng trong chương trình của Đức Chúa Trời, vì 1917 là năm hân hỉ thứ tám kể từ 1517.
Sau khi quân Anh tiếp tục tấn công khiến quân Ottoman chạy trốn khỏi Jerusalem, giải thoát thành cổ nầy khỏi ách cai trị suốt 400 năm của đế quốc Ottoman hồi giáo Thổ nhĩ kỳ, thì cuộc đại thắng đó giống như cổng cầu tuột mở ra đẩy Ottoman vào chỗ suy vong nhanh chóng. Các sử gia Cơ-đốc nhận xét rằng khi Ottoman chống lại sự tái lập quốc gia Do-thái, thì đế quốc ấy sụp đổ mau lẹ cách kỳ lạ; họ bị rơi vào lời nguyền rủa của Đức Chúa Trời hứa với Abraham: “Ta sẽ ban phước cho người nào chúc phước con, nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa con” (Sáng-thế 12:3). Tuy rằng tuyên ngôn Balfour đề nghị cho người Do-thái trở lại vùng đất tổ quốc cũ của họ, nhưng sau khi kết thúc chiến tranh, việc đó bị ngăn trở bởi một số diễn biến chính trị ngay tại vương quốc Anh.
Thời kỳ chen giữa hai cuộc thế chiến, đế quốc Anh đã thay đổi chính sách, chống nghịch lại điều mà họ đã có lần đi tiên phong vận động. Bấy giờ, chính quyền Anh ngăn cản những chuyến tàu chở người Do-thái chạy trốn nạn diệt chủng ở Âu châu về quê hương họ ở Trung đông. Huyền nhiệm của lời hứa Đức Chúa Trời lại xảy ra: Chỉ trong vòng một thời gian ngắn ngủi, đế quốc lớn nhất và hùng mạnh nhất thế giới vào thời đó bỗng sụp đổ tan tành, mất hết quyền lực, bị buộc phải từ bỏ vùng Đất Hứa. Thật ra, nguyên nhân đã có từ lâu, nhưng sự kiện chính khiến đế quốc Anh phải sụp đổ là các động thái ngoại giao sai trật, nên tới năm 1940, chủ nghĩa đế quốc tan rã.
Nhưng một nước hùng mạnh khác nổi lên có hảo ý với việc phục hồi Israel, để sau hơn mười bảy thế kỷ, dân Do-thái được trở về quê hương tổ tiên họ. Đó là Hoa kỳ, nước được Đức Chúa Trời đưa lên vị trí quyền lực chưa từng có trong lịch sử thế giới. Chính phủ Anh đã chuyển giao vấn đề xứ Thánh, mà họ đặt tên là xứ Palestine, cho Hội Quốc Liên, tiền thân của Liên Hiệp Quốc về sau. Vấn đề ấy là Kế Hoạch Phân Chia ranh giới cho các nước trong khu vực nầy. Kế hoạch đó muốn được thực hiện cách hợp pháp, thì phải được một đa số là hai phần ba các nước tham dự bỏ phiếu chấp thuận trước cuối năm 1947. Vậy, số phận Xứ Thánh thời đó như chỉ mành treo chuông.
Lúc ấy, khối cộng sản Đông Âu đã thành hình do Liên Bang Soviet cầm đầu; một liên minh vô thần đầu tiên trong lịch sử có quyền tham gia Liên Hiệp Quốc và bỏ phiếu trong Đại Hội Đồng. Thế nhưng lãnh tụ Soviet, Joseph Stalin tính rằng việc tái lập Israel là cách làm suy yếu ảnh hưởng của Anh, trong khi đó có thể làm gia tăng ảnh hưởng của khối Soviet ở Trung Đông; cho nên, điều rất nghịch lý là có thể toàn khối ấy sẽ bỏ phiếu thuận. Điều trớ trêu là, Bộ Ngoại Giao Mỹ chống lại nghị quyết đó, trong khi tổng thống Hoa kỳ thì ủng hộ nghị quyết. Chính việc nầy cho thấy bàn tay can thiệp của Đức Chúa Trời trong những việc mà Ngài định phải thành hình (Êsai 46:11b).
Tổng thống Hoa kỳ Franklin D. Roosevelt, người duy nhất được bầu bốn nhiệm kỳ tổng thống. Lên cầm quyền từ năm 1933, qua đời ngày 12 tháng 4, 1945, lúc đang ở nhiệm kỳ thứ tư. Nếu ông còn sống, việc tái lập Israel khó thành hình. Nhưng người lên thay ông là phó tổng thống Harry Truman, lại ủng hộ nghị quyết tái lập nước Israel theo ý Chúa (Thi. 75:7). Cho nên, ngày 29 tháng 11, 1947 Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc bỏ phiếu về nghị quyết nầy trong thời Harry Truman là tổng thống Hoa Kỳ. Nghị quyết thông qua với 31 phiếu thuận, 13 phiếu chống và 10 phiếu trắng.
Ngày 29 tháng 11, 1947 là ngày vui mừng cho dân Do-thái trên toàn thế giới: Họ sẽ lại có tổ quốc như hơn hai ngàn bốn trăm năm trước. Nhưng, từ 1917 tới 1947 chỉ mới 30 năm; vậy nó liên quan thế nào tới năm hân hỉ? Người ta nghiên cứu và thấy đại hội đảng Zion được triệu tập lần đầu tiên vào ngày 31 tháng 8, 1897. Đúng 50 năm sau, Kế Hoạch Phân Chia ranh giới được soạn thảo xong vào ngày 31 tháng 8, 1947 tại Basel, Thụy Sĩ. Mặc dù 1947 không phải là năm hân hỉ, nhưng quãng thời gian năm mươi năm ấy đem nỗi vui mừng tới cho hàng trăm ngàn người Do thái ở xứ thánh, và hàng triệu người Do-thái ở Âu châu vừa thoát nạn diệt chủng đều hoan hỉ.
Trước khi Đức Chúa Trời muốn sáng tạo hay thành lập một điều gì thì Ngài phán. Lời phán của Ngài rất quan trọng. Ngài sáng tạo vũ trụ, trong đó có trái đất, bằng Lời Phán của Ngài. Để lập nên một dân tộc và quốc gia Israel, Đức Chúa Trời cũng phán ý định của Ngài với ông Abraham vào lúc ông chẳng có hi vọng gì hết (Sáng thế 15:3–6). Lời Chúa phán được ban ra trước khi Abraham có đứa con của lời hứa, dòng dõi người con ấy chưa trở nên một quốc gia. Nhưng Chúa cũng nói trước rằng con cháu thế hệ thứ tư của Abraham mới được thừa hưởng miền đất mà Ngài hứa ban. Ngài cũng phán rõ ranh giới đất ấy là từ sông Ai-cập cho đến sông lớn Euphrates (Sáng thế 15:18).
Chúa lại cho biết trước rằng: Vì tội lỗi của dân Israel, họ phải bị lưu đày khỏi xứ và có lời hứa rằng họ sẽ được phục hồi. Người đời sau chế nhạo Kinh Thánh; vì bản sao Kinh Thánh cổ nhất mà Hội Thánh có trước năm 1947 là từ thời trung cổ, nghĩa là bản sao chừng năm sáu thế kỷ mà thôi. Rồi thế giới bàng hoàng thấy Chúa phục hồi Lời Ngài đã chép trước khi phục hồi quốc gia Israel. Cuối năm 1946, đầu 1947, ba thiếu niên Arab chăn dê khám phá những cuộn sách cổ chứa trong các chum gốm giấu trong nhiều hang đá khu vực Qumran ở vách đá bờ phía Tây Biển Chết. Đó là những “Cuộn Biển Chết,” tới nay vẫn là khám phá khảo cổ cực quý và vĩ đại nhất trong lịch sử.
Các bản cổ ấy có niên đại từ hơn 300 năm BC tới AD 100. Điều kỳ diệu là Kinh Thánh có vào thời kỳ 1947 là bản dịch chính xác các “Cuộn Biển Chết” cổ xưa. Đức Chúa Trời đã sắp đặt để các bản cổ phục hồi đúng lúc, chứng minh rằng Lời Ngài đã không bị sao chép sai trật theo thời gian; vì thường là tam sao thì thất bổn. Nhiều việc cực kỳ quan trọng liên quan tới dân Đức Chúa Trời tuyển chọn đều xảy ra trong năm 1947. Năm mươi năm chủ nghĩa Zion, Kế Hoạch Phân Chia ranh giới, nghị quyết Liên Hiệp Quốc thành lập quốc gia Israel, các bản Kinh Thánh cổ bị giấu kín hơn hai ngàn năm được phục hồi, một đất nước bị xóa sổ hơn hai ngàn năm cũng được phục hồi.
Từ hai ngàn sáu trăm năm trước, Đức Chúa Trời đã phán về việc nầy: “Ai đã từng nghe một việc như thế? Ai đã từng thấy những việc giống như vậy? Có đất nước nào chuyển dạ trong một ngày, hay dân tộc nào được sinh ra trong một lúc không? Thế mà Si-ôn mới vừa chuyển dạ đã sinh con cái” (Êsai 66:8). Việc đất nước Israel sẽ được hồi sinh không phải chỉ là sự suy đoán của người hồ hởi sảng. Đức Chúa Trời đã phán hơn hai ngàn năm trước trong thị tượng cho tiên tri Ezekiel. Ông được đem tới một thung lũng đầy các hài cốt rất khô. Chúa hỏi ông: “Hỡi con người, những hài cốt nầy có thể sống chăng?” ông trả lời không biết, nhưng Chúa phán với đống hài cốt: “Nầy, Ta sẽ phú hơi thở vào các ngươi và các ngươi sẽ sống” (Ezekiel 37: 3, 5). Bây giờ, Israel hồi sinh.
Tiếng Hebrew từng bị xem là cổ ngữ và đã mai một vì không được dùng nữa. Thường thì ngôn ngữ được sử dụng nhiều nên sinh ra từ điển. Nhưng đối với Israel và tiếng Hebrew thì từ điển làm tái sinh ngôn ngữ; cũng vậy, cha mẹ vẫn dạy ngôn ngữ con, nhưng trong trường hợp Israel thì con cái dạy tiếng Hebrew cho cha mẹ. Rất ngược đời! Bởi vì quốc gia Israel được phục sinh từ cõi chết. Không ai dám nghĩ tới điều đó. Nhưng, khi sắp tới ngày tận thế, Đức Chúa Trời làm ứng nghiệm lời Ngài phán từ xưa: “Nầy, Ta sẽ cho sự bình an tuôn chảy đến nó như một dòng sông, và vinh quang của các nước tràn ngập như dòng suối; các con sẽ được bú, được bồng ẵm bên hông và mơn trớn trên đầu gối. Ta sẽ an ủi các con như người mẹ an ủi con mình” (Êsai 66:12–13).
TheoDoiTanThe04.docx
Rev. Dr. CTB